Tìm hiểu chung về văn biểu cảm
Dạy
I – KIẾN THỨC CƠ BẢN CẦN CÓ
Đầu tiên. Văn biểu cảm là thể loại văn mà tác giả (người viết) sử dụng các phương tiện ngôn ngữ, hình ảnh thực tế để bộc lộ tư tưởng, tình cảm chủ quan của mình nhằm gây thiện cảm ở người đọc.
Các phương tiện ngôn ngữ được sử dụng để diễn đạt trong văn biểu cảm bao gồm: từ ngữ, hình thức đặt câu, vần, ngắt nhịp, các biện pháp tu từ.
Các hình ảnh dùng để diễn đạt trong bài văn biểu cảm được lấy từ thực tế như phong cảnh, con người, sự vật…
2. Có hai phương thức biểu đạt:
Biểu cảm trực tiếp là cách trữ tình bộc lộ tình cảm của người viết bằng lời nói trong mối quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp gợi ra những tình cảm đó bằng câu hỏi, lời than thở.
– Biểu cảm gián tiếp là cách bộc lộ tình cảm, cảm xúc thông qua miêu tả phong cảnh, kể chuyện gợi ra một suy nghĩ, liên tưởng nào đó mà không trực tiếp gọi ra cảm xúc đó.
II. HƯỚNG DẪN HỌC BÀI
1. Nhu cầu thể hiện của con người
– Tôi tiếc con cuốc trên trời
Dù tôi có khóc ra máu cũng không ai nghe
Đoạn thơ có thể nói lên cảm giác khao khát công việc của con cuốc, cũng có thể hiểu là ẩn dụ cho sự đói khát thân phận vô vọng của con người.
– Đứng bên cẩm thạch nhìn đồng trống mênh mông bát ngát.
Đứng bên tê tê, nhìn bên ni bát ngát mênh mông.
Thân em như bông lúa
Lênh đênh dưới nắng mai
Ca dao bộc lộ tâm trạng băn khoăn của người con gái trước bao bon chen
Người ta thường tỏ tình để cho người khác thấy tình cảm của mình hoặc tìm thấy ở người khác sự chia sẻ, thấu hiểu và đồng điệu.
Có thể làm bài văn biểu cảm khi có nhu cầu bộc lộ tâm trạng, tình cảm, cảm xúc của bản thân về một đối tượng nào đó (thiên nhiên, con người, xã hội,…).
Trong những bức thư gửi cho người thân hoặc bạn bè, cảm xúc có thể được bày tỏ.
2. Đặc điểm chung của văn biểu cảm
Đọc hai đoạn văn (trang 72 SGK):
Đoạn (1) bộc lộ trực tiếp nỗi nhớ qua việc gợi lại một số kỉ niệm. Đây là một biểu hiện phổ biến trong các bức thư và nhật ký. Đoạn (2) thể hiện tình cảm gắn bó thiết tha với quê hương, đất nước.
Cả hai đoạn văn đều khác với văn tự sự và miêu tả thông thường. Nó không có nội dung trọn vẹn nhưng thể hiện rõ tình cảm, tâm trạng của người viết.
b) Hai đoạn văn cho thấy: tình cảm, cảm xúc trong văn biểu cảm phải là tình cảm, cảm xúc thấm nhuần tư tưởng nhân văn. Đúng vậy, bởi nếu không phải là tình cảm, cảm xúc thấm nhuần tư tưởng nhân văn thì sẽ không đạt được mục đích biểu đạt hiện thực.
c) Phương thức bộc lộ tình cảm, cảm xúc trong hai đoạn văn trên có những đặc điểm sau:
– Đoạn (1) là biểu cảm trực tiếp (kể về những kỉ niệm đẹp với bạn).
– Đoạn (2) là biểu cảm gián tiếp (tác giả tả tiếng hát trong đêm khuya của cô gái).
II – HƯỚNG DẪN ĐÀO TẠO
Đầu tiên. Trong hai đoạn văn ở SGK, treo trang 73-74, đoạn (b) có tính biểu cảm vì nội dung đoạn văn thể hiện tình yêu đối với vẻ đẹp mộc mạc, sức sống tiềm tàng, khỏe khoắn của hoa thu hải đường.
Cả hai đoạn đều nói về thu hải đường, nhưng đoạn (a) sử dụng yếu tố miêu tả chính xác đặc điểm của thu hải đường; còn đoạn (b) sử dụng yếu tố tưởng tượng và ca từ gợi hình: “Hoa thu hải đường rạng rỡ, nồng nàn nhưng không kém phần nữ tính, những cánh hoa khum khum như muốn bịt kín nụ cười có má lúm đồng tiền”.
2. Cả hai bài thơ sông núi phương Nam Và Giá kính đều là những biểu hiện trực tiếp. Nội dung biểu đạt trong bài sông núi phương nam thể hiện lòng tự hào dân tộc, quyết tâm bảo vệ chủ quyền trước mọi thế lực xâm lược. Nội dung biểu đạt trong bài Giá ưu đãi khi kinh doanh thể hiện niềm tự hào về tinh thần chiến thắng và khát vọng hòa bình của dân tộc ta thời Trần.
3. Một số bài thơ, bài văn (trữ tình) biểu cảm hay: Thương ai (ca dao), cảm hoài (Đặng Dung), Khóc Dương Khuê (Nguyễn Khuyến), Đây mùa thu tới (Xuân Diệu), Tràng giang (Huy Cận), Con đường ta đi (Nguyễn Trung Thành)…
4. Một số đoạn văn xuôi biểu cảm:
a) “… Thuở nhỏ, đã bao lần tôi thả hồn tưởng tượng về những ngôi làng trong truyện cổ tích mà tôi đã đọc, nhưng tôi chưa bao giờ gặp một ngôi làng nào giống như ngôi làng tôi đang sống. Năm mười bảy tuổi, Tôi lên tàu Thống Nhất vào Nam, đến làng miệt vườn sông nước, rồi sau này đi tập viết, làm báo, có dịp đi nhiều nơi, nhưng vẫn chưa thấy ở đâu thân thiện như làng quê ấy!…
Làng tôi không giống làng nào bởi nó được ấp ủ trong ký ức của chính nó. Làng quê gần gũi, thiêng liêng và gợi nhớ như lòng người nôn nao mỗi độ thu về khi nghe tiếng trống trường, chiếc sọt tre treo mẹ ngoài đồng, như hương vị trầu cau của bà chiều bên chõng.
Hóa ra, thời gian có thể làm phai mờ nhiều thứ, nhưng ký ức tuổi thơ không bao giờ phai mờ. Đó có phải là lý do tại sao người ta có thể có quê hương thứ hai, nhưng chỉ có một quê hương đầu tiên?”
(Nguyễn Trọng Hoan, Quê Hương Tuổi Thơ,
Giáo dục và Thời đại, 8/1985)
b) “… Anh chợt nhớ khi em về thăm hoa sứ nở tím Nắng đầu tháng cờ phấp phới Gió hồng như lửa Áo trăm màu tiễn đưa dưới tán me xanh…
Gió tháng tư, gió của đất trời chiều nay, mát lạ lùng! Mới hai mươi tám năm thôi; hai mươi tám mùa nắng gió, hai mươi tám mùa phượng hồng…
Nắng gió ngày nào còn đâu đây. Con về thăm mẹ trong một buổi chiều đầy gió, nắng vàng đầy kỷ niệm khó quên!
Ta về lại tháng Tư lịch sử, về lại ngọn gió mát của hai mươi tám mùa yêu thương.
Làm sao chúng ta quên được “ngọn gió năm tháng huy hoàng thổi mãi với lòng người và với thời gian”.
(Lê Đức Đồng, Từ nắng gió,
Giáo dục và Thời đại, 5/2003)
Mai Thư