Thuyết minh về một thể loại văn học
Dạy
I. KIẾN THỨC CƠ BẢN CẦN CÓ
Tự sự về một thể loại văn học là một thể loại khó diễn giải. Bởi vì, để rút ra những nhận thức quan trọng cho việc giải nghĩa, các em phải có những kiến thức nhất định về thơ: luật bằng – bát quái, vần, niêm, đối, nhịp, v.v… Chỉ có trí tuệ của các em mới có kết quả. Luật bằng – bát quái, vần, niêm, đối, nhịp… là những công cụ, phương tiện để trẻ khám phá, cảm thụ thơ ca nói chung, thơ ca Việt Nam nói riêng.
Sử dụng công cụ trên, học sinh sẽ quan sát, khám phá, phát hiện đặc điểm của hai bài thơ Bước vào nhà tù Quảng Đông Và Đập đá ở Côn Lôn. Bạn sẽ khám phá:
– Đây là thể thơ tám chữ bảy chữ (mỗi khổ bảy tiếng, mỗi khổ thơ tám dòng).
– Nhịp độ thường là 4/3:
Nắm chặt tay nhau / đối tác kinh tế,
Mở miệng cười / mối thù.
Thân đó còn, / còn sự nghiệp
Bao nhiêu nguy hiểm / không sợ gì cả.
(Đến nhà tù Quảng Đông để cảm nhận)
Tháng của sự giữ gìn / cơ thể sành điệu,
Nắng mưa càng bền càng bền.
Những người vá trời / khi lỡ một bước,
Khó bảo/chuyện con cái.
(Đập đá ở Côn Lôn)
Khi đọc một dòng thơ, sau một số từ, nghĩa nhất định, các em dừng lại một chút rồi mới đọc hết cả dòng. Những khoảng ngắt đó là những khoảng ngắt trong các dòng thơ.
– Ký hiệu cho các thanh bằng (sắc, hỏi, ngã, nặng) là T và các thanh bằng (ngang, thâm) là B. Sự xen kẽ của các bát quái trong hai bài thơ được cụ thể hóa như sau:
GIẢI TRÍ MỘT NGƯỜI TĂNG CƯỜNG QUẢNG ĐÔNG QUỐC TẾ
T – B – B – T / – T – B – B
T – T – B – B / – T – T – B
T – T – B – B / – B – T – T
T – B – T – T / – T – B – B
T – B – B – T / – B – B – T
T – T – B – B / – T – T – B
B – T – T – B / – B – T – T
B – B – B – T/ – T – B – B
Đập đá ở Côn Lôn
B – B – T – T / – T – B – B
B – T – B – B / – T – B – B
T – T – T – B / – B – T – T
B – B – T – T / – T – B – B
T – B – B – T / – B – B – T
B – T – B – B / – T – T – B
T – T – T – B / – B – T – T
B – B – B – T / – T – B – B
Dựa vào vòng quay B – T này bạn có thể tìm ra niêm phong Và ngược lại với trong bài thơ:
– Dấu (dính nhau): Tiếng hàng trên và tiếng hàng dưới tương ứng là B. Ví dụ:
Như một người đứng giữa Côn Lôn,
Magnificent làm cho núi tuyết lở.
(làm/lừng lẫy): niêm phong với nhau)
– Đối: Âm tương ứng ở dòng trên B và âm tương ứng ở dòng dưới T. Chẳng hạn, trong hai dòng thơ trích trên, cậu bé / trượt cho nhau.
II. HƯỚNG DẪN HỌC BÀI
Tham khảo để viết một bài bình luận về Ngày tận thế thơ ca.
TƯ TƯỞNG THƠ
Một) Thơ trữ tình Đường luật có niêm luật (tức là quy định về bằng và thanh trong từng câu, từng bài) rất chặt chẽ. Nếu âm tiết thứ hai của câu thơ thứ nhất có thanh điệu thì câu thơ đó thuộc hình thức thanh bằng, và âm tiết thứ hai là thanh trắc.
Ví dụ:
– Có thể bằng: Ngôn ngữ thịt gà Gáy gáy trên bom
– Sự thích hợp: Tạo nên hóa chất gây xôn xao đấu trường
Cơ thể được coi là cơ thể chính, và cơ thể bình đẳng là biến thể.
b) Các câu trong bài phải dính nhau thì gọi là niêm. Bằng cấp và văn bằng, văn bằng và học vị theo một hệ thống như sau:
Tiếng thứ hai câu I được niêm phong bằng tiếng thứ hai câu VIII.
Tiếng thứ hai của câu II niêm với tiếng thứ hai của câu III.
Tiếng thứ hai của câu IV được nối liền với tiếng thứ hai của câu V.
Tiếng thứ hai của câu VI được niêm phong bằng tiếng thứ hai của câu VII.
Tóm lại: nhất – bát, nhì – ba, tứ – ngũ, lục – mà.
c) Thể thơ thất ngôn của Đường luật chỉ dùng vần bằng và chỉ viết bằng một vần (đơn âm), nói chung thơ bốn câu (tứ tuyệt) là ba vần, thơ tám câu (bát cú) là năm vần. âm tiết, với ngoại lệ.
– Các ngoại lệ đối với quy luật bình đẳng (gọi là quy luật bất nhất):
Không có vấn đề ba, không có vấn đề gì nghĩa là các chữ thứ nhất, thứ ba và thứ năm trong câu không được tính trong một câu thơ, nhưng vẫn không bị coi là phạm luật.
– Ngoại lệ về cách trốn vần:
Muốn tránh vần thì hai câu thoát vần (tức hai câu đầu) phải đối nhau (gọi là Phong kép).
Ví dụ:
Mắt trắng ngơ ngơ cả đời không anh
Mái đầu xanh đã già rồi…
Một bài phú phải có sáu câu đối.
d) Dưới đây là bảng luật, vần của thể thơ Đường luật (có trừ)
– Thân hình sự khảo sát cú bát tệ hại.
Ví dụ: QUA TUY NHIÊN
Bước chân Kế tiếp Đèo Ngang, bóng xe ngựa,
Cây chen lấn đá, lá và hoa.
Cúi dưới núi, dành mấy chú,
Lác đác vài chợ quê ven sông.
Cô Nước đau lòng con nhà nước quốc gia,
Yêu nhà là mệt mỏi, các gia đình.
Dừng lại, dừng lại, bầu trời, núi non, nước,
Một phần của tôi với hoàn cảnh của riêng tôi.
(Bà Huyện Thanh Quan)
– Thân hình bình đẳng khải huyền tám cú:
Ví dụ: THU
Ao sưu tầm nước trong vắt lạnh lùng,
Một chiếc thuyền câu nhỏ bé teo tóp.
Làn sóng xanh theo làn sóng gợn nhẹ,
Những chiếc lá vàng khẽ đung đưa trong gió.
lớp mây phớt lờ lửng bầu trời xanh,
Ngõ tre quanh co vắng người.
Không thể buông gối trong một thời gian dài,
Cá nơi chân vịt di chuyển.
(Nguyễn Khuyến)
Về bố cục, bài thất ngôn có bốn phần (đề, thực, luận, kết):
+ Chủ đề kể cả câu ngắt chủ ngữ và câu thừa. Đây là phần mở đầu, chuẩn bị không khí cho cả buổi học.
+ Thực gồm hai câu III và IV đối nhau. Đây là phần phát triển ý từ câu luận điểm như tả cảnh, tả việc, diễn giải ý, thuyết minh, chuẩn bị cho bài văn, hoặc có ẩn ý trong đó.
+ Lập luận gồm hai câu đối V và VI, có chức năng nhận xét, bình luận, thường là phát triển từ các ý trong hai câu thực, đôi khi lẫn lộn với hai câu thực.
+ Kết thúc gồm hai câu VII và VIII có chức năng kết bài nhưng thường là gợi ý, mở ra một ý mới khiến người đọc lúng túng,…
Chú ý: Ngắt nhịp trong thể thơ bảy chữ “Đường luật” theo thể 4/3 hoặc 2/2/3 tạo nên nhịp điệu nhẹ nhàng, uyển chuyển, mềm mại. Thể thơ thất ngôn truyền thống được ngắt theo nhịp 3/4 hoặc 3/2/2, kết hợp với lối gieo vần hỗn hợp cả bằng lẫn vần, cả vần chân và vần lưng, tạo nên nhịp điệu câu thơ mạnh mẽ.
(Đinh Trọng Lạc, Tiếng Việt 11, SGV,
Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2000)
III. HƯỚNG DẪN ĐÀO TẠO
Đầu tiên. Lập dàn ý thuyết minh đặc điểm của truyện ngắn (Dựa vào một số truyện ngắn đã học như: Tôi đi học, Lão Hạc, Chiếc lá cuối cùng).
Một) Khai mạc
Định nghĩa truyện ngắn:
Ví dụ: “Truyện ngắn là hình thức tự sự nhỏ… tập trung miêu tả một sự việc, một hành động, một trạng thái nhất định trong cuộc đời nhân vật, thể hiện một khía cạnh của tính cách hoặc một khía cạnh nào đó của đời sống xã hội”.
b) Thân hình
Nêu những nét chính về truyện ngắn:
– Đặc điểm về dung lượng: số trang viết ít, không dài.
Chỉ ra đặc điểm này trong ba truyện ngắn Tôi đi học, Lão Hạc, Chiếc lá cuối cùng.
– Đặc điểm về sự việc, nhân vật: ít nhân vật, sự kiện do dung lượng truyện ngắn không lớn. Thông thường nó chỉ là một hoặc hai nhân vật với một vài sự kiện nhỏ.
Phân tích Tôi đi học, Lão Hạc, Chiếc lá cuối cùng để thấy rõ ràng và cụ thể hơn về điều này.
– Đặc điểm của cốt truyện:
Xảy ra trong một không gian và thời gian hẹp.
+ Không kể toàn bộ quá trình sống của con người mà thường chọn một giai đoạn, thời điểm hoặc thời điểm nhất định để trình bày.
Tiếp tục phân tích ba tác phẩm trên.
– Nghĩa:
Tuy truyện ngắn, dung lượng không nhiều nhưng cũng không nhiều nên ý nghĩa xã hội của truyện ngắn không lớn. Có những truyện ngắn nhưng có ý nghĩa xã hội sâu sắc.
Chỉ ra ý nghĩa xã hội to lớn của ba tác phẩm Tôi đi học, lão Hạc Và Chiếc lá cuối cùng.
c) Kết thúc
Nêu cảm nghĩ của bạn:
Về cái hay, về sức hấp dẫn của truyện ngắn.
– Phù hợp với cuộc sống lao động cấp bách trong giai đoạn hiện nay.
Mai Thư