Tập làm văn: Ôn tập về tả con vật
Dạy
* Bài tập 1
Một) Bài văn gồm 4 đoạn
Đoạn 1 (Câu đầu) – (Mở đầu tự nhiên) Đoạn văn bản 2 (ở cạnh lờ mờ treo trên cỏ) Đoạn 3 (ở cạnh cuộc hành trình dài trong đêm dày đặc). Đoạn 4 phần còn lại – (Kết luận không mở rộng) |
Giới thiệu sự xuất hiện của chim họa mi vào buổi chiều. Tả tiếng hót đặc biệt của chim sơn ca trong buổi chiều tà. Tả dáng ngủ rất đặc biệt của chim sơn ca. Miêu tả cách hát chào nắng ban mai rất đặc sắc. |
b) Tác giả quan sát chim sơn ca bằng nhiều giác quan:
– Bằng thị giác (mắt):
Thấy chim sơn ca đến đậu trong bụi hồng – xem chim họa mi nhắm mắt, rụt đầu vào chùm lông ở cổ để ngủ khi đêm đến – xem chim họa mi vươn cổ hót, xù lông rũ sương giọt, nhanh chóng vượt qua bụi này sang bụi khác, tìm giun để ăn vào bụng, sau đó vỗ cánh và bay đi.
– Bằng thính giác (tai):
Nghe tiếng chim hót những buổi chiều (khi trầm tĩnh, khi náo nhiệt, như đàn trong bóng tối, âm thanh vang vọng trong tĩnh lặng, như lay động sương lạnh) nghe bài hát sáng sớm vang dội của nó vào buổi sáng.
c) Tôi rất thích hình ảnh so sánh trong bài viết (nó chỉ có một hình ảnh so sánh);
đôi khi hát êm đềm, có lúc rộn ràng như tiếng đàn trong bóng tối, âm vang trong tĩnh lặng… bởi hình ảnh so sánh ấy đã miêu tả rất hay đặc biệt là tiếng hót của chim họa mi vang lên trong buổi chiều yên ả.
* Bài tập 2
Ví dụ về một đoạn văn:
Nghe hơi mẹ, chú chim con nhích lại gần, cố giương cái mỏ hồng, há to chờ mồi như đứa trẻ đói khát sữa mẹ. Chim mẹ đứng trên cao, cẩn thận cho chim con ăn. Con chim non ngậm lấy, nuốt chửng, vừa ăn xong một miếng lại há họng chờ miếng khác. Khi hết thức ăn, cậu bé vẫn đòi mẹ cho ăn. Chim mẹ rỉa lông cho đàn con như mẹ âu yếm con.
trăng sáng