Tập làm thơ tám chữ
Dạy
I – NỘI DUNG CƠ BẢN CẦN BIẾT
– Thể thơ bát cú là thể thơ mỗi dòng có tám chữ (thơ đồng thoại).
– Thể thơ tám chữ, nhịp không đều:
+ Nhịp 3/5:
Mùa xuân đang đến,/ có nghĩa là mùa xuân đang đi qua,
Xuân còn trẻ,/ nghĩa là xuân sẽ già.
(Xuân Diệu, Sự vội vàng)
+ Nhịp 4/4:
Tôi đang ở với bà, / cô ấy nói với tôi
Mẹ dạy em làm,/ mẹ lo cho em ăn học.
(Trong tiếng Việt, bếp lửa)
+ Nhịp 5/3:
Chợ tưng bừng / cận đêm.
Khi tiếng chuông chiều ở chùa / văng vẳng,
(Đoàn Văn Cư, chợ TẾT)
Cách ngắt nhịp có đôi chỗ thay đổi trong một khổ thơ, một đoạn văn:
Đi theo bà / váy, / dép.
Chị sen / đầu quàng khăn hồng
Đặt trên bao da/hộp màu đen sáng bóng.
Cô dâu/ hôm nay trông choáng váng,
Vòng vàng, / áo mới, / nón quai thao.
(Đoàn Văn Cư, đám cưới mùa xuân)
– Vần chân (vần ở âm cuối), vần liên tiếp hoặc xen kẽ:
+ Vần liền:
Mùa xuân đang đến, có nghĩa là mùa xuân đang đến thông qua,
Xuân còn non tức là xuân còn cũ
Và mùa xuân đã qua, có nghĩa là tôi cũng vậy mất;
Trái tim tôi rộng, nhưng lượng luôn luôn chặt.
(Xuân Diệu, Sự vội vàng)
+ Khoảng cách gieo vần:
Mưa rơi bụi mềm bến đò vắng mặt,
Thuyền lười nằm trong nước sông trôi;
Tiệm tranh đứng lặng giữa sa mạc im lặng
Bên chòm hoa tím rụng qua.
(Anh Thơ, chiều xuân)
II – HƯỚNG DẪN HỌC BÀI
1. Nhận diện thể thơ tám chữ
Câu hỏi (b)
Thơ Thế Lữ gieo vần chân, liên tiếp : tân – ngàn, mới – gội, xả – rừng, gắt – mật ; Bài thơ của Bằng Việt gieo vần chân, liên tiếp: về – nghe, học – chăm, bà – xa; Thơ Tố Hữu gieo vần chân, khoảng cách (cách gieo câu mới với nhau): hát – hát, trẻ – con trai, đứng – dựng, tiên – tự nhiên.
Câu hỏi (c)
Cách ngắt nhịp đa dạng, linh hoạt. Ví dụ, khổ thơ đầu tiên:
Em ở đâu/ những đêm vàng/ bên suối
Em đứng uống say ánh trăng tan?
Đâu rồi những ngày/mưa quay bốn hướng?
Tôi chiêm nghiệm đổi mới giang sơn của tôi?
Bình minh ở đâu / cây xanh đầy nắng,
Tiếng chim hót / giấc ngủ của tôi / hân hoan
Còn đâu những buổi chiều/đẫm máu sau rừng
Tôi chờ đợi / chết dưới ánh mặt trời thiêu đốt,
Hãy để tôi lấy một phần bí mật?
– Than ôi! / Một thời oanh liệt / nay còn đâu?
(Thế Lữ, Nhớ rừng)
2. Luyện nhận biết thể thơ tám chữ
Bài tập 1. Dựa vào cách ghép nghĩa, vần, nhịp, ta điền vào chỗ trống như sau:
Hãy cắt dây ca hát
Dư vị nhạt của Hôm qua
Ôm lấy màu xanh bát cơm
Của ngày mai mãi mãi với tất cả các loài hoa.
(Tố Hữu, tháp rơi)
Bài tập 2. Cũng như vậy, những từ còn thiếu trong câu thơ của Xuân Diệu là:
– Và mùa xuân tất cả có nghĩa là tôi cũng mất;
– Làm sao có thể nói rằng mùa xuân còn đó tuần hoàn
– Vì vậy, tôi xin lỗi, tôi xin lỗi Trái đất và bầu trời;
bài tập 3
Đầu tiên, chúng tôi loại trừ khả năng tác giả gieo vần bằng dấu cách, vì ở đây cặp 2 – 4 cũng không gieo vần. Vậy chỉ còn khả năng gieo vần liền thì câu 2 phải vần với câu 3. Nhưng câu 3 đã mất vần (chữ cuối phải vần với “gương” ở cầu 2) và mất nhịp (chữ cuối phải vần với bình đẳng). .
Nối câu thứ ba cho đúng:
Con trai mười lăm tuổi đi học
bài tập 4
Nếu chưa quen với thể thơ này, trước hết không cần làm hay mà hãy làm cho “thông” (hiểu ý, không gượng ép làm mất ý) và “lạc điệu”. tai” (đảm bảo đúng về số chữ, vần, nhịp).
3. Tập làm thơ tám chữ
bài tập 1
Đọc cả khổ thơ để biết cách gieo vần với khoảng trắng: Từ “trắng” (câu 1) gieo vần với từ “mặt trời” (câu 3). Vậy tiếng cuối câu 4 phải là tiếng bằng và chứa vần “a” để gieo vần với tiếng “xa” ở câu 2. Tiếng thứ 6 của câu 3 phải là tiếng bằng để giữ nhịp (chuyển thanh điệu so với câu 2).
Toàn bộ khổ thơ là:
Bầu trời trong xanh không gợn sóng trắng
Gió nam thổi cánh diều bay xa.
Hoa lựu nở đỏ vườn nắng,
Những con bướm vàng lơ đãng bay lượn.
(Anh Thơ, trưa hè)
Bài tập 2
Tôi tự viết câu thơ thứ tư. Gợi ý: Qua 3 câu đã cho, ta thấy khổ thơ có vần cách: từ “lạ” (câu 1) gieo vần với “ra” (câu 3). Vậy chữ cuối câu 4 phải vần với “trường” (câu 2). Ngoài ra, cũng phải tính đến sự tương đồng về ý nghĩa.
bài tập 3
Làm theo hướng dẫn của SGK.
Chú ý: Ngoài việc nhận xét về vần, nhịp đã đạt chưa, nếu có bài thơ, câu thơ hay thì nên “bình văn” (làm rõ cái hay, cái đẹp của bài thơ, câu thơ).
Mai Thư