Ôn tập phần Tập làm văn
Dạy
I – NỘI DUNG CƠ BẢN CẦN BIẾT
– Thấy được hai kiểu bài văn thuyết minh và tự sự.
– Xem sự kết hợp với các phương thức biểu đạt khác trong hai kiểu văn bản này:
+ Trong văn tự sự có sử dụng một số biện pháp nghệ thuật (tự sự, tự sự, đối thoại,…).
+ Trong văn tự sự có biểu cảm, miêu tả nội tâm, lập luận, đối thoại, độc thoại, v.v.
– Sự kết hợp với các phương thức biểu đạt khác ngoài phương thức biểu đạt chính làm cho bài văn sinh động, hấp dẫn.
– Tuy nhiên, vẫn cần phân biệt các loại văn bản trên ở đặc điểm cơ bản và ở mức độ các yếu tố tham gia. Chẳng hạn, miêu tả mang nhiều sắc thái chủ quan của người viết, trong khi miêu tả phải khách quan, khoa học; Phần mô tả sử dụng các con số ít cụ thể hơn, trong khi phần giải thích sử dụng dữ liệu cụ thể và chi tiết hơn.
II – HƯỚNG DẪN TRẢ LỜI CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP
câu hỏi 3
Văn thuyết minh có yếu tố miêu tả, tự sự khác với văn miêu tả, tự sự ở nhiều điểm, nhưng quan trọng nhất là: Văn thuyết minh chủ yếu sử dụng các phương pháp khoa học (dùng thuật ngữ, số liệu cụ thể, từ đơn tiết) để đảm bảo tính khách quan, khoa học. ; miêu tả và thuyết minh thì ngược lại, chủ yếu sử dụng các biện pháp nghệ thuật như hư cấu, tưởng tượng, so sánh, phóng đại,… Miêu tả và thuyết minh trong văn bản thuyết minh chỉ là yếu tố đơn lẻ xuất hiện, minh họa cho nội dung thuyết minh khi cần thiết.
câu hỏi 4
– Nội dung chủ yếu của văn bản tự sự là tự sự (gồm sự việc, nhân vật và lời kể). Ngoài ra, trong văn tự sự còn có miêu tả và lập luận.
– Miêu tả trong văn tự sự có tác dụng làm cho sự việc, nhân vật, khung cảnh sinh động, hấp dẫn. Riêng việc miêu tả nội tâm làm cho tư tưởng, tình cảm của nhân vật được bộc lộ trực tiếp, từ đó góp phần khắc họa tính cách nhân vật. Chẳng hạn, đoạn trích sau trong truyện Kiều Miêu tả nỗi nhớ người yêu và gia đình của Thúy Kiều:
Đáng tiếc những dặm của cái chết,
Hồn quê theo mây Tần xa.
Tiếc câu nói xuân xưa,
Lòng từ bi biết có êm không?
Mười năm trôi qua,
Ngoài ra khi da và tóc sương.
Thật không may một chút ý nghĩa cũ,
Dù em có rời xa nhưng trái tim anh vẫn còn.
Duyên phận ấy dầu nối chỉ hồng,
May mắn thay, khi bạn có bàn tay của bạn.
Lòng tha hương xa cố quốc,
Con đường kia lộn xộn.
– Nghị luận trong văn bản tự sự vừa có thể bộc lộ tính cách nhân vật, đồng thời cũng có thể bộc lộ điểm nhìn của người viết. Ví dụ, đoạn kết câu chuyện sau đây có ghi nhận xét:
VẼ CỨNG LÀ GÌ
Có một thợ thủ công vẽ một số bức tranh cho vua nước Tề. Vua hỏi:
– Cái gì khó vẽ?
– Vẽ chó, vẽ ngựa khó.
– Cái gì dễ vẽ?
Vẽ ma thật dễ dàng.
– Tại sao vậy?
– Chó và ngựa ai cũng thấy, vẽ mà không giống, người ta chê cười. Ma quỷ là giống vô hình, không ai thấy, vẽ thế nào cũng không ai bắt bẻ được.
Một người bỏ công việc hàng ngày và chỉ chuyên tâm làm những điều kỳ lạ và quái dị để khoe với mọi người thì giống như một người thợ chỉ vẽ ma, tức là tránh cái khó và làm cái dễ.
(Dựa theo khảo cổ học tinh túy)
Trong văn tự sự có thể kết hợp cả miêu tả nội tâm và lập luận. Đoạn trích sau đây kể về một nhà văn nghèo đấu tranh với chính mình để hướng văn của mình tới những người cần cù, kiên quyết từ bỏ những cám dỗ của văn học lãng mạn:
Trong nháy mắt, Điền thấy không đi được. Điền không thể hạnh phúc khi Điền còn đau khổ. Ôi chao, trăng đẹp quá! Mặt trăng dịu dàng và trong sáng, và bình tĩnh. Nhưng trong những căn lán dột nát, nơi vầng trăng soi tỏ rất đẹp, biết bao người quằn quại, nức nở, nhăn nhó trước những cơ cực của cuộc đời! Biết bao nghiến răng chửi thề! Bao nhiêu đau khổ khổ sở?… Không, không, Điền không mơ được. Sự thật phũ phàng luôn ở ngoài kia. Sự thật giết chết những mộng mơ lãng mạn đã gieo vào tâm trí Điền thứ văn chương của những kẻ nhàn rỗi. Điền muốn trốn tránh sự thật, nhưng trốn tránh bằng cách nào? Điền vợ khổ, Điền khổ con, Điền cha mẹ khổ.Điền tự chịu. Còn bao nhiêu người cùng nỗi khổ như Điền! Đau khổ làm teo đi phần lớn tính cách đẹp đẽ của một người. Âm thanh đau đớn vang lên mạnh mẽ. Ồ! Ồ! Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ, thoát khỏi những kiếp lầm than, vang dội mạnh mẽ trong lòng Điền. Bạn không cần phải đi đâu cả. Điền không cần trốn tránh, Điền chỉ đứng trong lao, mở tâm hồn ra để đón nhận mọi dư âm của cuộc đời…
(Nam Cao, Trăng sáng)
câu hỏi 5
– Về khái niệm đối thoại và độc thoại nội tâm: xem lại bài 13.
– Ví dụ về đoạn văn tự sự có sử dụng đối thoại: Tôi thấy mình trong truyện ngắn Làng quê, Lặng lẽ Sa Pa, Chiếc lược ngà,… nơi có cuộc đối thoại giữa các nhân vật.
– Ví dụ về đoạn văn tự sự có sử dụng ngôn ngữ độc thoại:
Tú đặt tô phở lên bàn cho anh rồi lặng lẽ bước ra thềm. Anh vừa ăn vừa càu nhàu:
– Tệ hại! Hủ tiếu! Ăn như đấm vào cổ họng!
(Kim Lan, con trai của vợ lẽ)
– Ví dụ về đoạn văn tự sự có sử dụng ngôn ngữ độc thoại nội tâm:
Càng nghĩ về điều đó, tôi càng cảm thấy một nỗi ân hận sâu sắc trong lòng mỗi khi nghĩ đến bà ngoại. Còn cô ấy, cô ấy chỉ yêu tôi. Cô yêu cậu bé này biết bao. Mỹ U kể chuyện năm tôi hai tuổi, Tết Nguyên đán năm đó, cô Ba mang năm cái bánh chưng đến nhà ông bà ngoại. Bà đi bộ một ngày đường, để mang cho cháu bà bánh chưng Tết. Ôi bà ơi, cháu không biết phải làm sao bây giờ. Tôi thường mơ một giấc mơ nhỏ. Rằng một ngày nào đó tôi có thể mua lại mảnh đất thân yêu của bạn. Tôi sẽ làm lại ngôi nhà nhỏ trên mảnh đất cũ. Tôi sẽ đan lại giàn trầu, dựng lại giậu xanh. Tôi sẽ, có lẽ tôi sẽ trở lại đó. Tôi sẽ… tôi sẽ… ồ rất nhiều thứ. Nhưng những suy nghĩ thơ ngây ấy như làn khói. Còn bây giờ, tôi vẫn rất nghèo. Tôi vẫn chỉ bùi ngùi khi chợt nhớ em và tiếc nuối mong ước mơ nhỏ nhoi ấy.
(Tô Hoài, Cần sa)
Câu hỏi 6
Một) Ví dụ về lời kể theo ngôi thứ nhất:
Dì Hảo là con gái nuôi của bà nội tôi. Người cha sinh ra dì đã chết từ lâu. Mẹ ruột của cô là vợ của Vân, một người phụ nữ bán bánh chưng ngon nổi tiếng khắp làng Vũ Đại. Tôi biết cô ấy vì khi còn nhỏ tôi rất thích ăn bánh rán. Có lẽ khi tôi sinh ra, ông trời đã định sẵn cho tôi một cuộc sống không giàu có nên đã phú cho tôi cái tính thích ăn rẻ của người nghèo. Có tôi, gia đình tôi không còn nghèo nữa. Nhưng tôi cứ thấy ăn cơm gạo đỏ sấy khô với rau muống luộc chấm nước tương còn hơn cơm tấm với thịt đông; nhưng bánh tráng chín kỹ đậm đà gấp ngàn lần sợi bún trắng, mềm mà nhạt.
(Nam Cao, dì Hảo)
b) Ví dụ về đoạn văn tự sự được kể theo ngôi thứ ba:
Anh vừa đi vừa chửi. Anh ấy luôn chửi thề khi uống xong. Anh bắt đầu nguyền rủa trời. Chuyện gì vậy? Thiên đường có thể sở hữu một ngôi nhà? Rồi anh nguyền rủa cuộc đời. Cũng không phải là: Đời có tất cả chứ không ai cả. Điên tiết, hắn liền chửi cả làng Vũ Đại. Nhưng cả làng Vũ Đại ai cũng bảo: “Chắc là trừ mình thôi! Không ai lên tiếng. Rất tức giận! Ồ! Điều này là rất thực tế! Tức giận đến chết! Ngoài ra, anh ta phải nguyền rủa người cha đã không nguyền rủa anh ta. Nhưng không ai nói gì. Chết tiệt! Có phí rượu không? Khi đó anh ấy có đau khổ không? Không biết người mẹ đã chết nào đã sinh ra thân xác anh khiến anh đau khổ đến vậy? A ha! Phải rồi, nó cứ chửi, nó cứ chửi cái mẹ chết tiệt đã sinh ra thân xác nó, sinh ra thằng Chí Phèo! Anh ấy xay Răng để nguyền đứa đẻ ra Chí Phèo. Nhưng biết ai sinh ra Chí Phèo? Vâng, Chúa biết! Anh không biết, cả làng Vũ Đại không biết.
(Nam Cao, Chí Phèo)
Ở đoạn (a), người kể trần thuật, đan xen suy nghĩ, tình cảm khá thoải mái. Các sự việc hiện ra tự nhiên, chân thực, gần gũi với tự truyện (Nam Cao thường dùng lối viết này để viết về những người thân yêu của mình). Nhưng mọi sự vật, sự việc dưới con mắt của cái “tôi” đều mang đậm tính chủ quan, một chiều.
Ở đoạn (b), các nhân vật và sự việc được nhìn từ nhiều điểm nhìn khác nhau (Chí Phèo dưới con mắt của người kể, dân làng Vũ Đại và bản thân Chí Phèo). Câu chuyện và các nhân vật vì thế hiện lên ở nhiều chiều, với nhiều cách đánh giá.
Mai Thư