Ôn Tập Tập Làm Văn (tiếp theo)
Dạy
Câu 7. Nội dung văn bản tự sự đã học ở lớp 9 so với nội dung về kiểu văn bản này đã học ở các lớp dưới:
Một) Điểm giống nhau: Cả hai đều lấy tự sự (kể chuyện) làm phương thức biểu đạt chính, tạo nên thành phần cơ bản của văn bản tự sự.
b) Khác: Chương trình Ngữ văn 9 đưa vào các thành phần khác trong văn bản tự sự như miêu tả (tả cảnh, tả nội tâm), nghị luận, đối thoại, độc thoại, người trần thuật chuyên biệt. Các thành phần này bổ sung cho nhau và bổ sung cho thành phần tự sự, làm cho tác phẩm trở nên hấp dẫn, sinh động.
câu 8
Tên gọi cho một loại văn bản được đặt theo phương thức biểu đạt chính. Bên cạnh phương pháp chính, luôn có những phương pháp khác.
Trong một văn bản tự sự, mặc dù có đủ miêu tả, biểu cảm, lập luận nhưng nếu tự sự là chính thì đó vẫn là văn bản tự sự vì tự sự tập hợp và chi phối các thành phần khác. Các thành phần khác là phụ trợ cho câu chuyện.
câu 9
STT |
kiểu văn bản chính |
Các yếu tố liên quan đến văn bản chính |
tự truyện |
Mô tả |
nghi luận án |
Sự biểu lộ bị cảm |
Lý thuyết sáng |
Điều củ hành |
Đầu tiên |
tự truyện |
X |
X |
X |
X |
||
2 |
Mô tả |
X |
X |
X |
|||
3 |
Lý lẽ |
X |
X |
X |
|||
4 |
Cảm xúc |
X |
X |
X |
|||
5 |
Hiện tại |
X |
X |
||||
6 |
Điều hành |
câu hỏi 10
Trong một số văn bản tự sự đã học trong SGK Ngữ văn từ lớp 6 đến lớp 9, không phải bao giờ cũng có đủ bố cục Mở – Thân – Kết mà bài làm của học sinh nhất thiết phải có đủ ba phần đó vì học sinh đang học phân môn Tập làm văn , có nghĩa là tôi tập làm văn, phải rèn cho vào khuôn phép, khuôn phép. Khi bạn thành thạo nó, bạn có thể phá bỏ khuôn khổ để sáng tạo.
câu 11
Những kiến thức và kĩ năng về văn bản tự sự của phần Tập làm văn giúp ích rất nhiều cho việc học văn bản tự sự trong phần Văn học vì nó cho ta những đặc điểm chung về phương thức phản ánh của thể loại văn học. này, để chúng ta có cách đi vào nội dung ý nghĩa cũng như vẻ đẹp nghệ thuật của tác phẩm.
Ví dụ: Khi đọc Truyện Kiều, Ta thấy Nguyễn Du kết hợp kể chuyện với tả cảnh, tả tình (nội tâm nhân vật) rất tài tình. Một số đoạn văn có thể được so sánh với Kim Vân Kiều truyện để thấy nó rõ ràng. Ví dụ, đoạn Kiều gặp Kim Trọng Sau đây.
Thúy Kiều thảo xong bài thơ, còn lưu luyến chưa muốn ra về, chợt thấy một thư sinh cỡi ngựa từ xa tiến lại gần. Vương Quân nhận ra đó là Kim Trọng, bạn thân của mình, không ngờ chàng cố ý đến đây nên vội nói với hai chị em:
– Hãy chứng kiến! Có anh Kim Trọng đến, em hãy tránh xa một thời gian!
Lúc đầu, Thúy Kiều nghe vậy ngước mắt nhìn Kim Trọng, thấy bóng dáng nho nhã hào hoa, cưỡi ngựa tiến lên, rồi cùng Thúy Vân đi ra sau mộ.
(Đoạn ngắn: Kim Trọng xin Vương cho gặp hai cô. Hai cô bước ra chào, bẽn lẽn. Kim Trọng đáp lễ rồi ra về.)
Bị sắc đẹp quyến rũ, Kim Trọng bất giác thơ thẩn, thầm nghĩ: “Nọc độc ái tình này thật lợi hại”. Lại thầm thề: “Nếu không lấy được hai người phụ nữ làm vợ, cả đời này tôi sẽ không lấy ai cả”. Nhưng vì sợ có Vương Quân ở bên, không tiện đứng lâu, đành phải cùng nhau nói lời từ biệt.
Cùng lúc đó, Vương Nguyên cũng sai người mang kiệu đến đón cậu. Hai cô gái lên kiệu về nhà.
(Thanh Tâm Tài Nhân, Kim Vân Kiều truyện)
Sử dụng một nửa thời gian, một nửa trả lại,
Tiếng nhạc vàng đâu nghe gần kề.
Hình như là nhà văn
Lặng lẽ buông tay bước từng bước.
Túi sau, gió và trăng,
Theo bước chân của một vài đứa trẻ.
Tuyết được in với màu sắc rõ ràng của một con ngựa đánh cá,
Cỏ hòa màu áo nhuộm cả trời.
Chỉ từ xa bạn mới lộ mặt,
Khách xuống ngựa đến nơi tự tình.
Hài kịch đi dặm xanh,
Một vùng như cây thủy tiên.
Vương quen chào anh,
Hải Kiều xấu hổ nấp dưới hoa.
(Đôi nét giới thiệu về Kim Trọng)
Đánh cắp mùi của kỳ lân,
Một cảnh trong cảnh xuân của hai nàng Kiều.
Nước non mấy buồng thêu,
Những người thầm yêu nhau một thời.
May mắn thay, việc giải cấu trúc là nhất quán,
Gặp tuần đố lá tìm hoa.
Bóng hồng thấy xa,
Mùa xuân và mùa thu hoa cúc đều mặn.
Quốc dân, thiên tài,
Tình trong cũng như ngoài.
Lơ mơ tỉnh dậy sau cơn mê,
Rốn thoải mái ngồi đó, một điểm dừng trên cằm khôn ngoan.
Bóng chiều như giục nỗi buồn,
Khách trên lưng ngựa ai cũng ghé qua.
Dưới cầu nước chảy trong veo,
Bên cầu tơ liễu, bóng chiều uyển chuyển.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Dễ dàng nhận thấy trong đoạn văn này, Kim Vân Kiều truyện chú trọng “chuyện” (tự sự) hơn là tả tình, nên tả cảnh, tả người, tả tâm trạng chung chung, sơ lược, khuôn sáo; với Truyện Kiều, Nguyễn Du làm ngược lại, truyện ít tình nhiều. Nếu tác giả Kim Vân Kiều truyện chỉ riêng việc Kim Trọng yêu Kiều từ cái nhìn đầu tiên, Nguyễn Du đối với Kiều cũng vậy. Nhưng sự mê đắm của một cô gái đoan trang, quen thuộc Yên bìnhtreo rèm phải kín đáo. Vì vậy, ngoài các mô tả trực tiếp – Khách lên ngựa người vẫn theo sau – Nguyễn Du chủ yếu miêu tả tâm trạng: Trong mắt nàng, sự xuất hiện của chàng khiến cả một vùng u tối đầy u buồn “nặng nề âm u” bỗng “như cây bồ công anh”, tươi tắn, bừng sáng. sáng lên. Đó là vì tình cảm mãnh liệt với con người Vòng xoay đại phát – Sang trọng bên trong, hào hoa bên ngoài.
câu 12
Những kiến thức, kĩ năng về tác phẩm tự sự của phần Đọc – hiểu và phần Tiếng Việt tương ứng giúp ích rất nhiều cho việc viết bài văn tự sự. Ví dụ, truyện Kiều chỉ cho chúng ta cách kể theo trình tự thời gian, cách kể ưu tiên về nhân vật chính, cách ngắt quãng tùy theo từng loại sự việc. Truyện ngắn chiếc lược ngà chỉ cho chúng ta cách xây dựng tình huống truyện, cách lồng các tình tiết trong một câu chuyện. Truyện ngắn Làng bản có ngôn ngữ giản dị mà hóm hỉnh của người kể chuyện. Các sinh viên đã đưa ra những ví dụ về những ảnh hưởng đó thông qua một số bài viết cụ thể của họ.
Mai Thư