Muốn làm thằng Cuội – Văn mẫu vip

Muốn làm Cuội

Dạy

I. KIẾN THỨC CƠ BẢN CẦN CÓ

1. Tản Đà (1889 – 1939) tên khai sinh là Nguyễn Khắc Hiếu, quê làng Khê Thượng, huyện Bút Bạt, tỉnh Sơn Tây, nay là huyện Ba Vì, Hà Nội. Tản Đà từng đi thi nhưng không đỗ. Ông chuyển sang sáng tác văn học quốc ngữ và sớm nổi tiếng. Bút danh Tản Đà lấy từ chữ núi Tản sông Đà của quê hương. Ông được coi là gạch nối giữa thơ ca cổ điển và thơ ca hiện đại Việt Nam. Ngoài thơ, Tản Đà còn viết văn xuôi. Các tác phẩm chính của Tản Đà: khối tình yêu trẻ em tôi, tôi (thơ, 1917), ước mơ của con (tiểu thuyết, 1917), nước thề (tiểu thuyết, 1920), con trai II (du hành, 1932), Giấc mơ lớn (tự truyện, 1932).

2. bài thơ Muốn làm Cuội trong cuốn sách khối tình yêu con tôi, xuất bản năm 1917.

3. bài thơ Muốn làm Cuội của Tản Đà là lời tâm sự của một con người lạc lõng với xã hội tầm thường, buồn bã và muốn giải thoát bằng ước mơ được lên cung trăng để kết bạn với chị Hằng. Bài thơ thể hiện sự lãng mạn với sự chào đón đáng yêu và những khám phá sáng tạo về thể thơ cổ điển.

II. HƯỚNG DẪN ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN

Đầu tiên. Tản Đà đã tâm sự rằng ông chán đời vì xã hội ông đang sống là xã hội thực dân phong kiến ​​“gió đì, mưa sa”, bản thân ông cũng cô đơn, bế tắc, dài dòng. Là một người lãng mạn, phóng túng, Tản Đà không hài lòng với cuộc sống đó. Anh thấy buồn, thấy chán. Anh tâm sự với chị Hằng rằng: đêm thu buồn lắm. Và thế giới cũng không có nhiều hấp dẫn: Bây giờ tôi đang chán một nửa.

2. “Cẩu thả” có nghĩa là làm những việc không bình thường, vượt quá mức bình thường. Goofy còn có nghĩa là chơi trội, thu hút sự chú ý bằng cách làm những việc độc đáo mà người bình thường không dám hoặc không làm được.

Tham Khảo Thêm:  Viết bài tập làm văn số 7 - Nghị luận văn học

Cái ngông thể hiện trong bài thơ này là muốn ra khỏi trần gian để lên cung trăng chơi với chị Hằng. Hơn nữa, nhà thơ xưng hô bâng quơ với chị Hằng, muốn chị coi mình như chú Cuội, như một người bạn đồng hành. Con đường lên trời, lên trăng của Tản Đà cũng bộc lộ cái ngốc nghếch của ông: Hằng ghì cành đa xuống, Tản Đà bám vào. Tản Đà rất tự tin, nghĩ rằng lên cung trăng sẽ khiến Hằng không còn cô đơn và không buồn nữa. Ý định với chị Hằng Rồi mỗi năm rằm tháng tám – Tựa nhau nhìn xuống nhân gian mà cười Nó cũng cho thấy sự ngu ngốc của nhà thơ.

3. Câu cuối của bài thơ là hình ảnh “Mỉm cười nhìn xuống thế gian”. Hình ảnh ấy thể hiện sự khờ khạo, lãng mạn của Tản Đà. Anh dựa vào Hằng (một cử chỉ thân mật, bình dị) và cùng cô nhìn xuống thế giới (con người trên trái đất) và cười. Cái cười ở đây có thể có mấy nghĩa: Thứ nhất, cười vì lúc này Tản Đà cảm thấy rất hạnh phúc, thỏa được ước mơ của mình, được rời chốn trần gian buồn tẻ để lên cung trăng sống với một người đẹp là chị Hằng. Thứ hai, cười là vì nhà thơ thấy thế giới buồn mà mình để lại chỉ là một thế giới nhỏ bé, nó vẫn diễn ra những điều lố bịch, buồn tẻ mà nhà thơ đã “lên” để nhìn xuống. thấy thật đáng khinh bỉ, mỉa mai.

Tham Khảo Thêm:  Trả bài viết số 2

4. Yếu tố tạo nên sức hấp dẫn của bài thơ trước hết là trí tưởng tượng lãng mạn và bay bổng của tác giả. Chàng mường tượng ra một cuộc trò chuyện thân mật và mường tượng ra một chặng đường du ngoạn cung trăng, những niềm vui sướng khi được làm bạn với chị Hằng xinh đẹp. Mặt khác, những cảm xúc dồi dào, tự do tuôn trào đã tạo nên những đoạn hội thoại tưởng tượng khá thú vị và hấp dẫn. Thái độ khờ khạo của tác giả cũng tạo cho bài thơ một giọng điệu và ý tứ khác thường. Điều cuối cùng là chất thơ giản dị, tự nhiên; Giọng thơ khi than thở, khi thăm dò, khi cầu xin, khi trào dâng, làm cho lời thơ vui vẻ, linh hoạt, tuy vẫn tuân theo niêm luật của thơ Đường, hàm chứa giọng điệu phóng khoáng, thoải mái.

II. HƯỚNG DẪN ĐÀO TẠO

Đầu tiên. Trong thơ Đường, các cặp câu 3 – 4 và 5 – 6 phải đối nhau. Câu 3 và 4 về hình ảnh: cung quế – cành đa, Đối với các hoạt động: ngồi – nhắc nhở, Về ý nghĩa: thăm dò – gợi ý.

Câu 5 và 6 nói về ý chính: đồng hành – gió mây, buồn – vui.

2. So sánh với ngôn ngữ và giọng điệu của bài hát Qua Đèo Ngang, tôi thấy bài Qua Đèo Ngang Ngôn ngữ trang trọng, trang trọng, chặt chẽ, chính xác. Riêng bài thơ này, giọng điệu nhẹ nhàng, phóng khoáng xen lẫn hóm hỉnh, ngông nghênh. Từ ngữ giản dị, thân mật, gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng ngày. Vần vần chặt chẽ, nhưng sử dụng nghệ thuật phóng khoáng, không chặt chẽ như trong thơ Bà Huyện Thanh Quan.

Tham Khảo Thêm:  Khái quát văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến cách mạng tháng Tám 1945

Mai Thư

Có thể bạn quan tâm

Related Posts

Trả bài tập làm văn số 3

Trả bài tập làm văn số 3 Dạy Em đọc kĩ các câu hỏi và yêu cầu trong SGK trang 149. Sau đó em đọc lại các…

Mẹ hiền dạy con – Văn mẫu vip

Mẹ hiền dạy con Dạy I – KIẾN THỨC CƠ BẢN CẦN CÓ Đầu tiên. Mạnh Tử (372 – 289 TCN) tên là Mạnh Kha; Sinh ra…

Tính từ và cụm tính từ

Tính từ và cụm tính từ Dạy I – KIẾN THỨC CƠ BẢN CẦN CÓ 1. Tính từ – Tính từ là những từ chỉ đặc điểm,…

Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng

Bác sĩ tốt nhất là trong trái tim Dạy I – KIẾN THỨC CƠ BẢN CẦN CÓ Đầu tiên. Tóm tắt câu chuyện Ông Phạm Bân có…

Nhân vật giao tiếp – Văn mẫu vip

nhân vật giao tiếp Dạy bài tập 1 Một) Trong các hoạt động giao tiếp trên, chủ yếu có hai chủ thể giao tiếp. Một là Anh…

Khái quát văn học Việt Nam từ đầu Cách mạng tháng Tám 1945 đến thế kỉ XX

Khái quát văn học Việt Nam từ đầu Cách mạng tháng Tám 1945 đến thế kỷ XX Dạy I. KHÁI QUÁT VĂN HỌC VIỆT NAM TỪ GIẢI…

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *