động từ
Dạy
I – KIẾN THỨC CƠ BẢN CẦN CÓ
– Động từ là những từ chỉ hoạt động, trạng thái của sự vật.
Ví dụ: ăn, uống, chạy, nhảy, nói, cười, đứng, ngồi…
– Động từ có thể đặt sau từ: đã, đang, sẽ, được, không, không, cũng, vẫn, giữ, vẫn…
– Động từ có thể trực tiếp làm vị ngữ.
Ví dụ: Họ cuộc sống Và trận đánh. (Những từ in nghiêng là động từ và vị ngữ).
Có hai loại động từ đáng chú ý, đó là:
+ Động từ không đứng một mình thường được theo sau bởi một động từ khác. Ví dụ: có ý định, dám, có ý định, muốn, quyết định, có thể… (cố gắng) LÀM, dám LÀM, xác định LÀM, muốn LÀM, quyết định LÀM, Có lẽ LÀM,…)
+ Động từ có thể đứng một mình. Ví dụ: đi, chạy, đứng, ngồi; buồn, vui, yêu, ghét…
II- HƯỚNG DẪN LUYỆN TẬP
Đầu tiên. Trước hết, tôi đọc câu chuyện Lợn cưới, áo mới một lần. Sau đó, đọc lại từng câu, chú ý các từ chỉ hành động, trạng thái của sự vật (động từ), gạch chân các từ đó. Cuối cùng, xếp các động từ tìm được vào một trong hai loại: động từ tình thái (không đứng một mình) và động từ hành động, động từ trạng thái (có thể đứng một mình).
Cụ thể, trong câu chuyện Lợn cưới, áo mới có các động từ sau: khoe, may, mang, mặc, đứng (chờ), đợi, đi, khen, xem, hỏi, nổi giận, nổi giận, chạy, chỉ, kể. Tôi tự phân loại các động từ này.
2. Tôi đọc câu chuyện này, rất chú ý đến câu cuối cùng: “Anh ấy chỉ muốn giữ của người khác, nhưng không bao giờ chấp nhận đưa cho tặng gì.” Hai từ giữ Và đưa cho ý nghĩa trái ngược nhau (giữ: nhận cái gì của người khác về mình; đưa cho: đưa cái gì của mình cho người khác). Như vậy, anh chàng bị rơi xuống sông chỉ có thói quen cầm chứ không cho; điều đó cho thấy anh chàng này là một người tham lam, bủn xỉn. Những chi tiết hài hước của câu chuyện thể hiện ở đó.
3. Tôi luyện viết trước ở nhà. Khi bạn viết, hãy chú ý đến những từ dễ bị viết sai chính tả ở đầu, cuối hoặc dấu trọng âm (chẳng hạn như các từ: hân hoan, bỡn cợt, mỏi mệt, lắm, quỳ, đào, mụ, biết, rừng, bình minh, giơ tay, chúa sơn lâm, trở về, còn, tạm biệt).
III – TÀI LIỆU THAM KHẢO
Các từ miêu tả hành động:
trong tiểu thuyết đỉnh núi của Thu Bồn (NXB Thanh Niên, 1986), tác giả đã sử dụng một số từ miêu tả động tác của con người có nhiều giá trị biểu cảm. Ví dụ:
– Dưới cánh đồng, người xem ếch cởi trần Huh đuốc, gọi nhau làm khung cảnh thêm rùng rợn (trang 79).
– Trẻ em vẫy cờ, cười to. (trang 141)
– Lê Bầu cởi áo làm chổi sóng phủi bụi trên lan can và gieo mình xuống, (trang 248)
– Bí thư Quang giơ chân sóng Tìm và bấm ngón chân cái vào chân Lê Bầu. (trang 141)
– Mọi người chế giễu bạn, bạn hừm tai anh ấy bịt lại, nhưng khi anh ấy về nhà vào buổi tối thì đầu anh ấy đau như búa bổ. (trang 263)
– Xem thêm Chín rừng hát đi chị hừm mỉm cười, (trang 169)
– Trong cơn hoảng loạn, anh ta vung tay một cách thô bạo và xô thông qua. (trang 74)
Bằng cách dùng từ thô ráp, thô ráp, góc cạnh, độ chính xác cao, câu chữ tạo cho người đọc một cảm giác rất thật và lạ như gặp lại một người bạn thân lâu ngày mới trở lại. , nhà văn Thu Bồn đã có những đóng góp nhất định về mặt văn xuôi.
Theo PHẠM ĐÌNH AN
(Tạp chí Ngôn ngữ và Cuộc sống, số 10/1997)
Mai Thư