Chơi chữ
Dạy
I – KIẾN THỨC CƠ BẢN CẦN CÓ
Đầu tiên. Chơi chữ là sử dụng những nét đặc trưng về ngữ âm, ngữ nghĩa của từ tiếng Việt để tạo nên những cách hiểu bất ngờ, thú vị; dùng để châm biếm, đả kích hoặc giễu cợt. Ví dụ: các từ in đậm dưới đây thể hiện cách chơi chữ đồng âm:
Bay hạt đậu dâu rừng hạt đậu.
Con kiến con bò đĩa thịt con bò.
2. Chơi chữ rất đa dạng. SGK Ngữ văn 7 nêu 5 lối chơi chữ thường gặp. Đó là:
Một) Sử dụng từ đồng âm (như ví dụ trên)
b) Sử dụng những từ gần với âm thanh. Ví dụ:
– Thư tài năng kết hợp với từ đôi tai một vần điệu. (Nguyễn Du)
– Một lũ ngu đang xem chuông
Nó nói với nhau rằng anh ấy yêu nó… (hồ Xuân Hương)
c) Sử dụng ám chỉ. Ví dụ:
Khổ thơ sau lặp đi, lặp lại phụ âm đầu m trong tất cả các tiếng:
Rất nhiều kiểu mưa
Mắt mỏi mãi mờ
Giấc mơ của tôi mệt mỏi và biến mất
Hoa Kỳ đủ may mắn để mơ ước.
(Tư béo)
đ) Sử dụng ngôn ngữ lái xe. Ví dụ:
Chủ báo, nói với chú tiếp tục làm thơ
Kinh tế, Thống kê chính xác.
e) Sử dụng từ trái nghĩa, từ đồng nghĩa và từ gần gũi
– Đối diện. Ví dụ:
Mời nàng rủ bạn đi ăn cùng
Buồn sở hữu nó cùng vui trăm nhà. (Phạm Hổ)
– Đồng nghĩa. Ví dụ:
Đi tu, Phật bắt ăn chay
Thịt chó có thể ăn, thịt cầy không. (Dân gian)
– Gần nghĩa. Ví dụ:
Ngả lưng cho thiên hạ ngồi
nhà phê bình bất chínhai cười không chung thủy. (Câu đố của phản đề)
Phản ánh (nhiều) đồng nghĩa, gần nghĩa, không chung thủy.
3. Chơi chữ được sử dụng khá nhiều trong thơ ca (đặc biệt là thơ trào phúng, trong câu đối, câu đố,…) và cả trong đời sống hàng ngày (nói bông đùa trong giao tiếp).
II – HƯỚNG DẪN ĐÀO TẠO
Đầu tiên. Tôi đọc chậm bài thơ của Lê Quý Đôn. Nếu để ý sẽ thấy mỗi dòng thơ đều có tên một loài rắn (gạch chân những từ chỉ loài rắn đó). Nếu để ý kỹ hơn, tôi còn thấy mỗi chữ này có hai nghĩa: thứ nhất chỉ tên một loài rắn; thứ hai, còn có nghĩa khác (cụ thể: rắn: cứng đầu, bướng bỉnh; hổ lửa: xấu hổ, xấu hổ với ngọn đèn; tiếng gầm ngày mai: luôn mắng mỏ, nhắc nhở con học bài; khô: khô; luống cày: roi in sau lưng; TỶrâu, lỗ: tên nước và quê hương của Mạnh Tử và Khổng Tử; rắn hổ mang: xấu hổ, nổi tiếng).
Như vậy, phép chơi chữ được sử dụng trong đoạn thơ trên chủ yếu là sử dụng từ đồng âm. Ngoài ra, mỗi dòng thơ đều có một chữ rắn (những chữ có nghĩa gần gũi) cũng là một cách chơi chữ độc đáo, sáng tạo.
2. Em đọc kĩ từng câu, chú ý các từ viết gần nhau (ở câu 1 từ khoá là từ thịt; ở câu 2 từ khoá là từ nứa). Dựa trên những từ trọng tâm này, tôi tìm những từ khác có nghĩa tương tự với những từ trọng tâm. Chúng ta dễ dàng nhận thấy, ở câu 1 có từ: chất béo, thăm dò (nem rán), NEM cuộn. Câu 2 có từ: “tre., tre, hop. Cách nói này cũng là một lối chơi chữ: vừa dùng từ đồng âm, vừa dùng từ cùng nghĩa.
3. Để tìm và thu thập dẫn chứng về hiện tượng chơi chữ, tôi tìm đọc các mục “Vui”, “Góc hài hước”… có tác dụng giải trí trên các báo này. Sau đó, tôi chép lại các câu chuyện và cách diễn đạt bằng cách trì hoãn.
4. Đọc thơ Bác, chú ý dòng cuối, nhất là mấy chữ khốn khổ, xin lỗi. Như vậy, ở dòng thơ cuối này, Bác Hồ đã sử dụng thành ngữ Hán Việt: đau khổ mãi mãi (khổ sở: vị đắng; kết thúc: hết; Quả cam: ngọt; hỗn hợp: đến). Đại ý của bài thơ này muốn nói: Phải chăng những ngày đen tối đau thương dưới ách nô lệ đã qua và những ngày ấm no hạnh phúc được sống trong độc lập tự do đang đến với dân tộc ta lúc bấy giờ. ?
Trong bài thơ này, đặc biệt ở dòng cuối, Bác Hồ đã sử dụng lối chơi chữ đồng âm (Quả cam chỉ có nghĩa là quả cam (mà chị Hằng Phương đưa) vừa có nghĩa vui, hạnh phúc được sống trong độc lập tự do).
Mai Thư