Bắc Sơn (trích hồi 4)
Dạy
I – KIẾN THỨC CƠ BẢN CẦN CÓ
Đầu tiên. Nguyễn Huy Tưởng (1912 – 1960) quê quánsốngNgười xã Dục Tú, huyện Đông Anh, Hà Nội, sáng tác trước năm 1945. Từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, ông là một trong những cây bút chủ lực của văn học Cách mạng. Ông cũng viết nhiều tác phẩm cho thiếu nhi. Năm 1996, ông được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
2. Kịch bắc sơn được sáng tác và đưa lên sân khấu vào đầu năm 1946, trong không khí sục sôi của những năm đầu kháng chiến. Bộ phim lấy bối cảnh cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (1940-1941), câu chuyện xoay quanh gia đình bác Phương, một nông dân dân tộc Tày ở Bắc Sơn. Phương và Sang – con trai ông – hăng hái tham gia đánh, còn bà Phương và Thơm – con gái vợ chồng bà Ngọc sợ hãi, lẩn tránh. Cuộc khởi nghĩa bước đầu thắng lợi. Đảng cử thầy Thái làm cán bộ Đảng để củng cố phong trào. Quân Pháp do Ngọc chỉ huy tái chiếm Vũ Lăng, đàn áp dã man quần chúng cách mạng và truy lùng những cán bộ lãnh đạo. Phương và Sang đã hy sinh. Trước cái chết của cha và anh trai, dần nhận ra bộ mặt phản động của Ngọc, Thơm rất buồn và ân hận. Khi Thái và Cửu tình cờ lạc vào nhà Thơm, cô đã trốn và cứu được họ. Biết Ngọc dẫn đường cho quân Pháp đánh du kích, Thơm đã xuyên rừng báo tin cho quân ta biết để kịp thời đối phó. Khi trở về, cô gặp Ngọc, bị anh ta bắn, nhưng chính Ngọc cũng trúng đạn của Pháp và hy sinh.
3. bắc sơn một vở kịch năm hồi. Đoạn trích là 2 lớp hồi 4, thể hiện sự đấu tranh nội tâm của Thơm và hành động cứu hai cán bộ cách mạng.
Nguyễn Huy Tưởng đã xây dựng tình huống bộc lộ mâu thuẫn cơ bản của vở kịch giữa quân Cách mạng và quân thù thông qua diễn biến nội tâm của Thơm – người con gái có chồng theo giặc, từ chỗ thờ ơ, ngại giao thiệp. gắn bó với Cách mạng để đứng về phía Cách mạng, che chở và giúp đỡ cứu sống hai cán bộ. Qua đó khẳng định sức thuyết phục của chính nghĩa cách mạng.
II – HƯỚNG DẪN ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN
Đầu tiên. Diễn biến sự việc trong đoạn trích: Thái và Cửu bị truy đuổi chạy nhầm vào nhà Thơm. Bối rối và sợ hãi. Nhưng cô đã quyết tâm bảo vệ hai người họ. Ngọc cùng đồng bọn đi tìm hai cán bộ nhưng không thấy. Chính lúc này, Ngọc dần lộ bộ mặt làm tay sai cho giặc. Thơm đã che chở, cứu sống hai cán bộ cách mạng là Thái và Cửu.
2. Trong đoạn trích, tình huống căng thẳng là khi Thái và Cửu bị giặc truy đuổi đã chạy nhầm vào nhà Thơm. Thái tin tưởng Thơm, còn Cửu thì băn khoăn, lo lắng. Trước tình thế đó, Thơm đã dứt khoát bảo vệ hai cán bộ cách mạng, ông đã đứng về phía cách mạng. Hoàn cảnh đó cũng khiến Ngọc bị lộ là người tham gia truy quét cán bộ, chính Ngọc là người Việt gian lừa đảo đã cùng đồng bọn bắt Thái và Cửu để lãnh thưởng.
3. Hoàn cảnh của Thơm lúc này là bố và anh trai hy sinh, mẹ bỏ đi. Cô chỉ có một người thân duy nhất là Ngọc, chồng nhưng Thơm lại nghi ngờ chồng. Thình lình thầy Thái và thầy Cửu tình cờ chạy vào nhà chị Thơm. Cô sợ hãi và bối rối. Nhưng bản tính thật thà khiến Thơm không tố cáo cả hai: “Có chết thì tao chết chứ tao không báo mày”. Chẳng những không thông báo, Thơm còn chủ động giấu hai người trong phòng rồi chỉ đường cho họ ra ngoài. Đối với Ngọc – chồng mình, Thơm hiểu rõ bản chất của chồng. Cô lớn tiếng thông báo với hai sĩ quan rằng địch đang ở sau nhà, ở lối ra khỏi phòng. Thơm khôn khéo khiến Ngọc không nghi ngờ rồi cùng đồng bọn bỏ đi.
Hành động của Thơm chứng tỏ cô đã đứng về phía cách mạng. Từ thế bị động, cô đã chủ động ra tay bảo vệ, cứu Thái và Cửu. Hành động của Thơm chứng tỏ cách mạng tuy bị dập tắt nhưng sức sống của nó vẫn không thể bị tiêu diệt, nó vẫn tiếp tục tác động, lôi cuốn cả những người đứng ngoài cuộc như Thơm.
4. Tác giả để Ngọc bộc lộ bản chất qua hành động săn lùng cán bộ cách mạng, tính thưởng bắt cán bộ, qua ý định tậu ruộng, chạy chức chín phẩm, định giá dàn xếp. cho một Ton nào đó đã mua những bức tranh ruộng của anh ấy. Ngọc quyết tâm làm tay sai để có tiền, đồng thời anh cũng cố tỏ ra nể vợ. Chính vì thế Thơm đã khéo léo đẩy Ngọc đi cùng đồng bọn, kín đáo báo cho hai cán bộ biết bọn tay sai đang đứng sau nhà, lối thoát ra khỏi phòng. Ngọc là kẻ hám tiền, quyết bắt cho bằng được hai quan, hắn còn cãi là không bắt thì người khác cũng bắt, bắt sớm cho dân đỡ khổ.
Hai nhân vật Thái và Cửu đang rơi vào tình thế nguy hiểm. Trong khi Cửu nóng nảy, bốc đồng, muốn hành động liều lĩnh ngay và hối hận vì đã đẩy Thái vào vòng nguy hiểm (vào nhà vợ ngoại của vợ, chắc cô ta cũng là kẻ lừa đảo) thì Thái lại rất bình tĩnh. . Thái tin vào huyết thống của Phương. Thái nghe tiếng thì biết Thơm không bao giờ làm rẻ hai người. Chính nhờ sự tin tưởng tuyệt đối của Thái nên Thơm mới đủ bình tĩnh để cứu cả hai, đề nghị hai người nói chuyện nhẹ nhàng, không ra xem xét sự việc mà trốn vào trong phòng.
Đặc điểm nổi bật của Thái và Cửu là điềm tĩnh, không sợ chết, với Thái còn là sự nhạy cảm, tin rằng những người như Thơm không thể làm điều ác, điều xấu.
5. – Xung đột kịch tính ở hồi bốn tập trung thể hiện cuộc đối đầu giữa kẻ thù, tiêu biểu là Ngọc và đồng bọn truy sát cán bộ cách mạng. Cuộc đối đầu giữa Ngọc với Thái và Cửu. Trong cuộc đối đầu đó, Thơm đã nghiêng người về phía Thái và Cửu để đánh Ngọc. Mâu thuẫn lại thể hiện trong tâm trạng của Thơm, đẩy tâm trạng nhân vật đến bước ngoặt quan trọng.
– Tình huống truyện: éo le, bất ngờ.
– Các đoạn đối thoại giữa Thái, Cửu, Thơm ngắn gọn, căng thẳng thể hiện sự khẩn trương, lo lắng, hồi hộp, bộc lộ nội tâm, tính cách nhân vật.
III – HƯỚNG DẪN ĐÀO TẠO
Có thể có nhiều loại vở kịch dựa trên các tiêu chí phân loại khác nhau. Căn cứ vào nội dung và tính chất nội dung có thể chia thành bi kịch, hài kịch, chính kịch. Tùy thuộc vào hiệu suất, nó có thể được chia thành sân khấu và kịch. Căn cứ vào cách tổ chức ngôn ngữ, tác phẩm có thể được chia thành kịch sân khấu, kịch thơ và kịch nói. Các thể loại kịch tôi đã học bao gồm kịch sân khấu (sân khấu dân gian: tuồng – chèo). Quán Âm Thị Kính), hài kịch (Ông Judden mặc lễ phục – trích dẫn Học giả kinh viện đã làm cho nó của Mollie), kịch (Bắc Kinh của Nguyễn Huy Tưởng).